Giữa thời đại của kĩ thuật, của công nghệ và thế giới số hôm nay, chúng ta vẫn thường nói với nhau về sự thiệt thòi của con trẻ khi không được tắm mình trong bầu không khí trong trẻo của làng quê, không có nhiều kí ức thần tiên đầy thú vị nơi cánh đồng, lũy tre, bờ ao, rơm rạ… Thì những trang viết trong Tuổi thơ im lặng của nhà văn Duy Khán sẽ phần nào bù lấp sự thiệt thòi ấy. Nó xứng đáng là hành trang đi cùng chúng ta trong từng bước trưởng thành của cuộc đời.
Thư viện tỉnh Hà Nam trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc cuốn sách Tuổi thơ im lặng.
Truyện ngắn tập hợp 29 câu chuyện nhỏ trải dài từ lúc tác giả bắt đầu biết nhận thức cho đến khi gia nhập quân đội năm 15 tuổi. Mỗi câu chuyện là một ký ức sinh động về làng quê Bắc Ninh, từ thiên nhiên, phong tục, lễ hội đến mảnh đời những con người có số phận éo le, con vật nuôi, qua con mắt trẻ thơ của cậu bé Khán.
Một thế giới tuổi thơ hồn nhiên và vô cùng trong trẻo mà chúng ta dường như chỉ gặp trong một thời xưa cũ bỗng ùa về. Qua từng dòng văn, tác giả đưa người đọc trở về với dòng sông kí ức, trôi dạt về một thời xa, xa lắm. Mộc mạc, đơn sơ mà gần gũi đến lạ thường, đọc những mẩu chuyện trong sách mà tưởng như ta đang sống lại một thời thơ dại đầy thú vị của một cậu bé làng quê. Cậu bé ấy thương yêu tất cả sự vật quanh mình, từ dãy núi, khu rừng đến ao hồ, làng xóm; từ cái cây trong vườn đến con chó vện, con mèo đen. Và trên tất cả những thứ ấy, cậu bé yêu thiết tha nơi chốn rau cắt rốn: “Tôi yêu quê hương tôi, cũng như yêu da thịt của tôi. Quê hương và tuổi thơ tôi luôn là điều kì diệu của tạo hóa cho con người”. Duy Khán đã đem tình yêu quê hương tha thiết ấy trải trên từng trang sách. Sâu lắng, lặng yên mà nồng thắm đến lạ lùng.
Mở đầu là màu sắc trang nhã và đầy thú vị về làng quê Bắc Bộ những năm 45 của thế kỷ XX. Bằng ngòi bút của mình, tác giả đã cho người đọc chiêm nguỡng vẻ đẹp hùng vĩ của núi Dạm hay núi Hàm Long trứ danh tại Bắc Ninh: Dưới ‘đầu rồng’ có cái thung lũng. Thung lũng có cái chùa cả Tổng, nổi tiếng tỉnh Bắc Ninh. Ấy là chùa Hàm Long, gọi tắt là chùa Hàm. Giữa chùa có tượng Thích Ca cao chọc nóc chùa, đâu mười lăm thước thì phải, bằng đồng đỏ chóe. Tôi ngẩng mặt nhìn Ông. Tôi lọt thỏm dưới cảnh áo cà sa của Ông. Chị Cún, cô Phan bảo tôi: ‘Đừng chỉ trỏ, cụt tay đấy’. Nhiều lần tôi chỉ trỏ mà chả thấy cụt tay hay là sau này mới cụt? Cách xa mấy cánh đồng, có quả núi như quả thị bổ đôi, úp xuống. Các cụ bảo đấy là núi Ngọc. Thôn Sơn Nam ở đấy, núi Ngọc ở đúng phía Hàm Long hướng ra.
Tiếp theo đó là hàng loạt ký ức tươi đẹp của ông ùa về qua từng câu chữ, màu sắc sinh động đến từ thiên nhiên cùng những bài vè của bọn trẻ con cũng được ngân lên nhằm điểm xuyến thêm ánh nắng cho tuổi thơ của Khán: “Tối, cái Bảng giải chiếu manh giữa sân. Cả nhà ngồi ăn cơm trong hương lúa đầu mùa từ đồng Chõ thoảng về; trong tiếng sáo diều cao vút của chú Chàng; trong dàn nhạc ve; trong tiếng chó thủng thẳng sủa giăng.
Ngoài ra, tác giả còn dành một đoạn để nhắc về những đồ vật quen thuộc trong nhà như cái chăn, tấm chiếu hay chiếc rổ, đồng thời biến chúng thành bạn của mình. Chi tiết đó đã bộc lộ tâm hồn trong trẻo cùng tình thương dạt dào từ tận sâu trong trái tim của Duy Khán.
Có thể thấy, tuổi thơ của tác giả không chỉ gắn bó với thiên nhiên và con người của làng Vân mà còn có cả những đồ vật tưởng chừng như vô tri. Mỗi một sự vật đều mang dấu ấn về những ngày thơ ấu của cậu bé Khán bởi tất cả đều chan chứa nghĩa tình và là bạn đồng hành trong tâm hồn của nhà văn: “Những đồ dùng biết nói thật đấy! Tôi đã từng nhìn khắp nhà, những đồ dùng đã sống cùng tôi: Cái võng đay rách. Cái chiếu manh thủng giữa. Cái mâm gỗ mộc “cóc gặm” một góc. Cái giỏ cua trông hình con ong, vá đi vá lại. Cái rổ, cái rá cạp lại. Cái chạn bát xiêu vẹo đầy mọt, đụng vào là bụi bay. Cái giường nứa ọp ẹp nan gãy, nan còn. Cái điếu bát nứt vành, chằng dây thép. Đến cái vại nước cũng phải vá xi-măng,..”. Tất cả, tất cả chúng đều cất tiếng: “Chúng tôi được sống cùng với tuổi thơ anh. Chúng tôi hoàn toàn không muốn nhờ vả anh cái gì. Chúng tôi chỉ muốn theo dõi từng bước anh đi.”
Với sự tài tình trong cách chọn lọc chi tiết cùng đôi mắt quan sát tinh tường và tình cảm sâu đậm với quê hương, Duy Khán đã thành công khi vẽ nên bức tranh lành quê vừa sinh động lại vừa giàu chất trữ tình.Trong dòng ký ức khi còn là cậu bé chỉ khoảng mười tuổi, người đọc không khỏi bồi hồi, xót xa cho những tháng ngày tươi đẹp đã qua; đồng thời, tìm thấy mình trong vệt ký ức của Duy Khán.
Bên cạnh những kỷ niệm về thiên nhiên và đồ vật, tác giả đã tinh tế đưa vào trang viết hình ảnh nhân văn về nỗi thống khổ của những người nông dân hiền lành, tốt bụng tại làng Vân, nhằm tăng tính chân thực cho truyện ngắn. Mời các bạn tìm đọc các mẩu chuyện: Bà nội, chú Ất, ông cả Kiến, cô Phan, Gái ơi!Gái, chị Ngoãn, những nấm mộ ven đường, anh Thắng, tìm mộ anh Thả,…để thấu hiểu hơn cái nghèo và bi kịch được hiện lên một cách đầy chân thực qua giọng văn của Duy Khán nhẹ nhàng, không dồn dập nhưng lại khiến người đọc ám ảnh bởi những cái chết được khắc hoạ rõ nét. Tác phẩm đã làm sống dậy một thời cơ hàn cùng những mảnh đời khắc khổ đến cùng cực nhưng vẫn chứa chan tình người.
Dưới cái nhìn của cậu bé Khán, ta lại lặng người đi bởi tiếng lợn giời kêu , mỗi khi nó cất tiếng kêu là lại có người phải vĩnh biệt cõi đời hay những cái xác trải đầy ngoài đồng trong nỗi vô vọng: “Ánh giăng mầu úa úa, rồi đỏ lừ. Lợn giời lại éc…éc… bay qua. Bao nhiêu người chết. Chú Toàn tôi đã chết. Rồi chị Cún là con chú, chết theo. Chị Cún bằng tôi thân tôi lắm. Bao giờ tôi sang chơi, dù là tối, chị cũng soi đèn chai ra rỡ dong riềng luộc cho tôi ăn. Chị vào cái xối ở đầu nhà bẻ mía. Chị nhanh lắm. Chị hay lam hay làm. Cô Toàn tôi bảo: nó xinh, nó ngoan nhất cái nhà này. Rồi chú Chà chết, thím Chà chết để lại em Lĩnh mới hẫng cẫng đi. Lợn giời lại kêu. Tôi chả nhìn thấy nó bao giờ và không biết đến bao giờ thì nó thôi kêu.
Ngày Khán lên đường nhập ngũ, sau lưng chỉ có bóng dáng người cha già đứng lặng lẽ trong mưa và ngôi làng thân yêu thì vẫn ập ình tiếng đại bác chứ chẳng có kèn trống rền vang hay những câu tiễn biệt. Chi tiết đắt giá ấy đã chiếm trọn trái tim bạn đọc bởi lẽ dù được miêu tả ngắn ngủi nhưng vẫn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Không cần lời dặn dò hay giọt nước mắt ngày chia li, cậu thiếu niên thầm hiểu được trên đôi vai gầy của mình là nỗi đau khôn xiết dành cho những người đã mất cùng lòng căm thù giặc đến thấu trời của người dân làng Vân.
Bằng cách kể chuyện chậm rãi, nội dung ngắn gọn cùng câu từ mộc mạc nhưng cũng không kém phần sâu lắng của Duy Khán đã giúp tác phẩm dễ dàng chạm đến trái tim và lấy đi không ít nước mắt từ độc giả: “Duy Khán đã dùng lối văn chắt chiu, ngắn gọn, độc đáo. Đọc văn Duy Khán, ta như được xối những gầu nước của những cái giếng khơi, càng xối càng thấy mát, mát từ ngoài da vào tận trong người theo dòng cảm xúc, ở nhiều chỗ, Duy Khán cũng đã tìm ra được cách diễn đạt gợi cảm, đúng và thích hợp với tâm lý tuổi thơ” (Hội nhà văn VN)
Hà Dung